Kiến trúc cách mạng
Kiến trúc của Windows 95 ưu tiên khả năng tương thích ngược hơn là sự hoàn hảo về mặt kỹ thuật. Đây là hệ điều hành lai 16/32-bit, được xây dựng trên nền tảng MS-DOS để đảm bảo khả năng vận hành trơn tru với hàng ngàn ứng dụng và driver 16-bit hiện có. Mặc dù MS-DOS khởi tạo hệ thống, quyền kiểm soát sau đó được chuyển giao cho trình quản lý máy ảo (VMM) 32-bit, vốn đảm nhiệm các chức năng hệ thống tập tin và đĩa cấp thấp.
Windows 95 triển khai mô hình đa nhiệm kép. Các ứng dụng 32-bit (Win32) được ưu tiên chạy trong các không gian bộ nhớ được bảo vệ riêng biệt và được hệ điều hành quản lý. Ngược lại, vì lý do tương thích, tất cả ứng dụng 16-bit (Win16) sẽ cùng tồn tại trong không gian địa chỉ chung duy nhất, tuân thủ theo mô hình cooperative multitasking cũ. Điều này nghĩa là chỉ cần 1 ứng dụng 16-bit bị treo, nó có thể làm đóng băng toàn bộ các ứng dụng 16-bit khác.
Giao diện lập trình ứng dụng (API) Win32 mới là cổng chính để các nhà phát triển khai thác sức mạnh 32-bit, triển khai trên 3 module gồm Kernel, User và GDI, mỗi module đều chứa cả thành phần 16-bit và 32-bit. Để kết nối 2 thế giới này, Microsoft phát triển cơ chế phức tạp gọi là thunking – lớp dịch thuật cho phép mã 32-bit và 16-bit giao tiếp với nhau. Cơ chế này giúp Microsoft có thể cho ra đời hệ điều hành mà không cần phải viết lại toàn bộ mã nguồn kế thừa. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này cũng có những thách thức đáng kể cho các nhà phát triển trong việc quản lý sự khác biệt giữa 2 môi trường lập trình.
Cải tiến đặc biệt quan trọng đối với người dùng là việc loại bỏ quy ước đặt tên tập tin 8.3. Windows 95 có VFAT (Virtual FAT) – phần mở rộng thông minh cho FAT truyền thống, cho phép đặt tên dài tới 255 ký tự. VFAT hoạt động bằng cách lưu trữ tên tập tin dài trong các mục nhập thư mục ẩn đặc biệt, đồng thời tự động tạo ra tên đại diện 8.3 tương thích cho các ứng dụng cũ. Các hệ điều hành cũ hơn như MS-DOS sẽ bỏ qua các mục nhập ẩn này, đảm bảo khả năng tương thích ngược.
Thay đổi mô hình trải nghiệm người dùng
Giao diện người dùng của Windows 95 thay thế hoàn toàn mô hình tương tác phân mảnh của Windows 3.1. Start Menu và Taskbar là 2 yếu tố định hình lại vĩnh viễn trải nghiệm máy tính để bàn. Start Menu đã bao gồm toàn bộ chức năng của Program Manager vào 1 nơi duy nhất, giảm đáng kể thời gian tìm kiếm và khởi chạy ứng dụng. Trong khi đó, Taskbar liên tục hiển thị các ứng dụng đang chạy, giải quyết triệt để vấn đề mất cửa sổ ứng dụng, đơn giản hóa đa nhiệm thành 1 thao tác.
Windows 95 có triết lý thiết kế mới, hướng người dùng vào nội dung thay vì ứng dụng. Windows Explorer mở ra khái niệm desktop như là không gian làm việc chủ động, cùng các tiện ích như Recycle Bin và Shortcut tiện lợi, lấy tài liệu (document) làm trung tâm. Thay vì phải tìm ứng dụng trước rồi mới mở tập tin, người dùng giờ đây có thể tương tác trực tiếp với tài liệu ngay trên desktop. Sự thay đổi này giúp cho máy tính trở nên trực quan hơn đáng kể.
Trên Windows 95, Plug and Play (PnP) xuất hiện với mục tiêu tự động hóa hoàn toàn quá trình cấu hình, thiết lập phần cứng mới. Tuy nhiên, việc triển khai PnP gặp nhiều thách thức do phải tương thích với hệ sinh thái hỗn tạp gồm cả thiết bị PnP mới và hàng đống card mở rộng ISA kế thừa. Sự phức tạp này thường dẫn tới việc phát hiện không chính xác, gây ra xung đột tài nguyên hệ thống (IRQ, DMA). Dĩ nhiên, mãi về sau thì Plug and Play mới thực sự tốt, còn ở thời điểm ra mắt vẫn gặp nhiều sự cố.
Nguồn:Baochinhphu.vn